Trần Mỹ Duyệt
Gần 300 năm dưới thời vua quan triều Nguyễn từ các thế kỷ 17, 18, và 19, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam có hơn 100.000 Kitô hữu đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng và Đức Tin từ năm 1644, năm thầy giảng Anrê Phú Yên chịu tử đạo, cho tới năm 1883. Vua Minh Mạng và vua Tự Đức là những hoàng đế bắt bớ và giết hại các Kytô hữu khốc liệt nhất: 55 vị chịu tử đạo thời vua Minh Mạng (1820-1841), và 50 vị dưới thời vua Tự Đức (1847-1883). Trong số này, 117 vị đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988, gồm 96 vị người Việt Nam (37 linh mục ,14 thầy giảng, 1 chủng sinh, 44 giáo dân trong đó có 1 phụ nữ là Thánh Anê Lê Thị Thành (tức Anê Đê). Ngoài 117 vị đã được phong Hiển Thánh, ngày 5 tháng 3 năm 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã phong Chân Phước (Á thánh) cho thầy giảng Anrê Phú Yên, người vẫn được coi là vị tử đạo đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam.
Thành ngữ Việt Nam có câu: “Thấy người sang bắt quàng làm họ.” Trong khi ôn lại lịch sử các vị Tử Đạo Việt Nam, tôi mới nhận ra rằng mình cũng là người nhà gần gũi với ít nhất ba trong các vị này. Đó là Thánh Gioan Đoàn Viết Đạt, Thánh Phêrô Phạm Khắc Khoan, và Thánh Gioan B. Đinh Văn Thanh. Cả ba vị đều trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến Hảo Nho, xứ đạo của tôi.
HẢO NHO CÓ NÚI THÁNH GIÁ
Ba vị Thánh mà tôi “nhận vơ” là người nhà vì các ngài đều có dính dáng đến xứ Hảo Nho, một xứ đạo có nguồn gốc lịch sử lâu đời của Giáo Phận Phát Diệm, và cũng từ đây hạt giống Tin Mừng dần lan rộng khắp nơi, sản sinh ra nhiều giáo xứ trong giáo phận Phát Diệm, Hà Nội và Thanh Hóa ngày nay.
Theo lịch sử, sáng ngày 19 tháng 3 năm 1627, cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) và cha Pedro Marquez cập bến Cửa Bạng thuộc Thanh Hóa. Sau hơn hai tuần lưu lại ở đây, hai cha tiếp tục hành trình đến Thăng Long với mục đích gặp chúa Trịnh Tráng để xin phép truyền giáo ở Đàng Ngoài. Tuy nhiên, gặp thời gian chiến tranh, chúa Trịnh đang kéo quân đánh chúa Nguyễn nên hai ngài đã ở lại Thần Phù chờ chúa Trịnh. Hai tháng ở đây từ cuối tháng 4 đến cuối tháng 6 năm 1627, hai cha đã rửa tội cho khoảng hai trăm người và thiết lập cộng đoàn công giáo đầu tiên của Đàng Ngoài. Các ngài cũng cho dựng một cây thánh giá bằng gỗ trên ngọn núi cao gần biển, và từ đó ngọn núi này có tên gọi là “Núi Thánh Giá.” Sau này cây Thánh Giá gỗ đã được thay bằng chất liệu gạch vôi trộn mật với cốt thép bên trong. Từ xa xa, người trong vùng có thể nhìn thấy thánh giá này. Hiện nay thánh giá vẫn còn tồn tại và là biểu tượng của Hảo Nho, và là điểm đặc biệt của Núi Thánh Giá, một khu vực hành hương tâm linh.
Gần Núi Thánh Giá còn có một ngọn núi thấp hơn tên là Núi Trụ, một ngọn núi nhỏ của dãy núi đá vôi Tam Điệp hùng vĩ uốn lượn bao bọc hai hồ nhân tạo Đồng Thái và Yên Thắng, nơi đây hai cha đã dựng một ngôi nhà nguyện nhỏ để làm nơi giảng đạo và rửa tội cho dân. Dưới chân Núi Trụ ngày nay, nơi còn lưu lại dấu tích nguyện đường và giếng rửa tội xưa cũ của ngôi nhà thờ cổ Hảo Nho, cái nôi của xứ đạo Đàng Ngoài.
Năm 1629, tức hai năm sau sự có mặt của cha Alexandre de Rhodes và cha Pedro Marquez, xứ đạo đầu tiên mang tên Vanno được chính thức khai lập và là xứ đạo đầu tiên của Đàng Ngoài. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, sau nhiều lần đổi tên như Hiếu Nho, Văn Nho, Thần Phù, giáo xứ Hảo Nho ngày nay thuộc xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Dưới thời cha Phêrô Năm, ngôi nhà thờ chính của giáo xứ Hảo Nho được xây dựng vào năm 1893. Nhà thờ làm bằng gỗ, theo kiểu kiến trúc Á Đông như Nhà Thờ Lớn Phát Diệm. Một kiểu kiến trúc theo hình dáng làng mạc Việt Nam, có tam quan, tức có nhà chính và các nhà thờ cạnh; phía trước lối vào có hai tháp chuông hai bên và một phương đình ở giữa. Trong những năm tháng bị tàn phá bởi chiến tranh, cộng mối mọt do không có người coi sóc nên phương đình và nhà dãy phía Tây đã bị hư hỏng.
Hảo Nho xứ đạo của tôi là nơi hạt giống Tin Mừng được cha cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), một người có công lớn trong việc Latin hóa tiếng Việt gieo xuống cách đây 400 năm, và nay đang cất giữ những lưu tích đặc biệt trong dòng chảy lịch sử của Công Giáo Việt Nam. Họ lẻ Tri Điền nơi tôi sinh ra và được rửa tội cũng trong dòng chảy này. [1]
TRI ĐIỀN QUÊ TÔI
Tri Điền là một trong 9 họ lẻ thuộc giáo xứ Hảo Nhỏ. Nhà thờ Tri Điền được xây năm 1887. Ngôi thánh đường mà tôi đã được rửa tội, và đã trải qua những ngày tháng tuổi thơ chạy chơi dưới bóng của nó, đã ê a đánh vần những chữ quốc ngữ đầu tiên tại ngôi trường bên nhà thờ, đã từng theo bà đi nhà thờ, và cùng các giáo hữu rửa chân ở chiếc ao trước khi bước vào nhà thờ. Ao này gọi là ao họ. Ngày nay ao vẫn còn đó, và một tượng đài Chúa Giêsu Vua được xây đứng giữa ao. Lần đầu về thăm quê hương năm 1999 và những lần sau này, tôi thật sự cảm động khi ghé thăm họ đạo Tri Điền. Tôi cũng đến viếng đất thánh, nơi mà những người thân trong dòng họ, đặc biệt là ông ngoại của tôi vẫn đang nghỉ yên nơi này. [2]
Ngày 27 tháng 6 năm 2024, họ Tri Điền được nâng lên thành giáo xứ Tri Điền do quyết định của Đức Cha Phêrô Kiều Công Tùng, Giám Mục Chính Tòa Phát Diệm. Ngài cũng đặt cha Giuse Phạm Văn Minh làm chính xứ tiên khởi. Văn thư của Tòa Giám Mục viết như sau:
[…] Căn cứ theo nhu cầu mục vụ và lợi ích của cộng đoàn Dân Chúa tại Giáo phận Phát Diệm, thể theo phúc trình của Giáo xứ Hảo Nho, và ý kiến của Hội đồng Linh mục ngày 21.7.2023, Tôi Giám mục Phêrô Kiều Công Tùng, với thẩm quyền và trách nhiệm Giám mục Giáo phận Phát Diệm, quyết định: Giáo họ độc lập Tri Điền được nâng lên giáo xứ thuộc Giáo hạt Phát Diệm, Giáo phận Phát Diệm. Địa chỉ: thôn Tri Điền, xã Yên Thái, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Giáo xứ nhận Đức Mẹ truyền tin làm bổn mạng với lễ kính ngày 25/3 hàng năm. […] [3]
NHỮNG VỊ THÁNH CỦA HẢO NHO
1-Thánh Gioan ĐOÀN VIẾT ĐẠT (1765-1798)
Lễ kính: ngày 18 tháng Bẩy
“Cha có lánh được thì cũng hại cho cả làng.” Đây là câu nói diễn tả tấm lòng của một vị chủ chăn hết lòng vì con chiên. Ngài thà chấp nhận chịu chết chứ không muốn bổn đạo của mình phải liên lụy, bắt bớ, và sát hại trong cơn bách hại đạo.
Thánh Gioan Đoàn Viết Đạt sinh năm 1765 tại xứ Đồng Chuối, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Tuy mồ côi cha từ bé, nhưng cậu Đạt vẫn muốn dâng mình cho Chúa. Năm 18 tuổi, được mẹ đưa vào gặp cha Loan xứ Đồng Chuối để xin cho vào ở trong nhà xứ. Sau đó được cha cho vào chủng viện. Xong chương trình chủng viện, thầy Đạt được phong chức phó tế và gửi đi giúp xứ. Khoảng tháng 2 năm 1798, thầy chịu chức linh mục lúc ba mươi ba tuổi và được đức cha sai về giúp xứ Hảo Nho.
Trong vai trò linh mục, ngài hết lòng thương yêu và coi sóc con chiên. Giáo dân rất mến ngài. Cha chính xứ là một linh mục thừa sai lúc ấy làm chứng: “Linh mục Đạt có đức nghèo khó, vâng lời và chăm xem sách, siêng năng làm việc mục vụ. Dù người năng ốm đau cũng chẳng kêu ca hay chẳng phàn nàn cái gì bao giờ, cho nên Đức cha và các linh mục khác quý mến người lắm. Khi giảng, cha có lòng sốt sắng và làm cho kẻ có tội động lòng muốn ăn năn trở lại”.
Tháng 7 năm 1798, vua Tây Sơn ra sắc chỉ cấm đạo gắt gao hơn các lần trước. Quân quan truy tìm các linh mục, giáo dân và phá các nhà thờ. Giáo dân Hảo Nho đưa ngài lên núi để ẩn trốn. Trong một đêm, ngài xuống nhà ông trùm làng Mai Lễ để dâng lễ an táng (lễ mồ), và ở đây cha đã bị bắt. Mặc dù được giáo dân giúp đỡ và có thể trốn thoát, nhưng ngài không chịu. Ngài nói: “Cha có lánh được thì cũng hại cho cả làng”. Ngài đã tự nộp mình chịu bắt. Lính giải ngài đi với thầy phó tế Tâm và ba người trong ban mục vụ là ông trùm Mãi, ông nhiêu Danh và ông Việt. Hôm ấy là ngày 14 tháng 7, kẻ đi bắt ngài tên là Nam Cưỡng.
Quân lính đánh đập và điệu ngài vào trong Thanh (Thanh Hóa). Từ khi bị bắt cho đến ngày xét xử, hơn ba tháng, dù phải chịu bao sự khốn khó trong tù nhưng ngài vẫn vui vẻ và hiền lành với mọi người. Giáo dân đến thăm rất đông. Ai trông thấy ngài cũng mến và được ngài vui vẻ, tươi tỉnh đón tiếp. Những ai tỏ ra thương khóc ngài, thì ngài an ủi cho người ta khỏi buồn.
Sợ giáo dân ngã lòng, ngài khuyên bảo họ: “Chịu nạn và chịu chết vì đạo là phúc trọng hơn cả, khắp cả và thế gian những kẻ chịu tử vì đạo từ xưa đến nay thì nhiều lắm. Nước An Nam ta chưa được mấy người”.
Khi điệu ngài ra công đường, các quan giục ngài bước qua thập giá. Họ nói với ngài: “Con chiên bổn đạo mến Cụ lắm, cùng tiếc hết lòng hết sức, có bước qua thập giá thì sẽ cho về với bổn đạo”. Nhưng ngài thưa rằng: “Nếu tôi có bước qua thập giá thì gớm lắm, bổn đạo không nhận tôi là Cụ, cùng chẳng tiếc nữa.” Thấy ngài vững vàng, nhất định không chịu bước qua thập giá, quan truyền cầm gông và kéo lôi ngài bước qua ảnh thánh. Nhưng ngài sấp mình xuống cùng lạy ảnh thánh, lính không thể kéo ngài đi được.
Chiều ngày 19 tháng 9, ngài đi xin quan đề đốc Điều thương những người giáo hữu và liệu cách nào cho bạn tù khỏi phải đòn roi. Ngài nói với quân lính rằng: “Vậy các anh đã có công đưa tôi đi, đưa tôi về, và coi tôi đêm ngày khó nhọc. Tôi có lòng thành nhờ người nhà mời các anh ăn một bữa cơm. Xin các anh thương và cư xử nhẹ nhàng với giáo hữu bị giam cầm”. Quan lại nói: “Chẳng phải là ta muốn làm việc này, bởi lệnh vua truyền thì phải làm”.
Khi biết án tử sắp được thi hành, cha Huấn ở xứ Bạch Bát giả làm thầy dạy học và bạn học với ngài vào Thanh Hóa thăm cùng ban Bí tích Giải tội cho ngài.
Ngày 28 tháng 10 năm 1798, dưới thời vua Cảnh Thịnh, sau khi ngài ngồi chắp tay đọc kinh, mặt hướng về nhà thờ làng Trinh Hà, lý hình thi hành án tử đối với người môn đệ trung tín tại pháp trường Chợ Rạ. Ngài hưởng dương 33 tuổi khi chưa tròn một năm linh mục. Giáo hữu đem xác thánh xuống thuyền chở về bến Phúc Nhạc, và an táng trong nhà thờ làng ấy. Về sau, giáo hữu bốc mộ để trong nhà tư kẻo bị người xấu lấy mất xác. Ngài là linh mục triều thứ hai tử vì đạo, trước đó là linh mục Thánh Emmanuel Nguyễn Văn Triệu, tử đạo ngày 17 tháng 9 năm 1798.
Linh mục Gioan Ðoàn Viết Ðạt được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII phong chân phước ngày 27 tháng 5 năm 1900 cùng lượt trong số 64 vị tử đạo Việt Nam, và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988. [4]
2-Thánh Phêrô PHẠM KHẮC KHOAN (1771-1840)
Lễ kính: ngày 28 tháng Tư
“Sáng danh Chúa trời đất, chúng tôi cám ơn Người vì chúng tôi được chịu chết vì Người.”
Cha Phaolô Phạm Khắc Khoan sinh năm 1771 tại làng Diên Mậu, thuộc xứ Hảo Nho, nay thuộc xứ Hiếu Thuận, xã Khánh Mậu, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, Giáo Phận Phát Diệm. Khi còn là giảng viên giáo lý (thầy giảng), ngài được giao cho điều hành Nhà Chung Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị, Nam Định). Sau khi chịu chức linh mục, ngài làm chính xứ Phúc Nhạc. Ngài thường xuyên thăm viếng các họ Đông Biên, Tôn Đạo và dòng Mến Thánh Giá, và luôn nhắc nhở giáo hữu về phép công bằng và nhân đức trong sạch. Dù trong xứ có ba cha phó, ngài vẫn chịu khó làm các phần việc và nêu gương sáng cho mọi người.
Ngày 23 tháng 8 năm 1837, khi đi xức dầu bệnh nhân ở Trại Bò về qua Đông Biên, ngài trú đêm trong nhà ông phó tổng Dụ. Sáng hôm sau, lý trưởng làng ấy vây bắt ngài cùng thầy Thanh và thầy Hiếu, hai giảng viên giáo lý. Ngài bị giải lên tỉnh và bị giam gần hai năm do đã quá 60 tuổi nên không bị xử tử ngay.
Khi quan trách rằng: “Sao ông không nghĩ lại mà biết mình đã lầm, hãy bỏ đạo đi, hãy vâng lời vua, đừng có nghe những thằng Tây nữa làm gì”. Ngài đáp: “Sống chết tôi không bỏ đạo”.
Theo bản án ban đầu thì ngài phải trảm quyết vì là linh mục, và phải bêu đầu đủ ba ngày để làm cho người ta sợ. Nhưng vua Minh Mạng lại giảm bớt hình phạt: “Thằng có tội này đã lừa dối người ta đã lâu, đến trước mặt quan nó cũng không chịu bước qua thập giá thì thật là người hư đáng chết. Nhưng mà nó đã hơn sáu mươi tuổi, chẳng còn sống được bao lâu, thì phạt nó như hai đứa đầy tớ nó, là giảo giam hậu”. Theo đó, ngài và hai thầy sẽ bị giam lâu ngày cho chết mòn.
Nhưng ngày 22 tháng 1 năm 1839, nhà vua lại có chỉ ra truyền cho các quan phải ra sức liệu làm sao để bắt ngài bỏ đạo. Ngài bị gọi ra và bảo rằng: “Ông đã biết đức hoàng đế thương ông lắm, vì ông là người bổn quốc. Tuy rằng đức vua bắt giam, nhưng mà sắc chỉ có ý cho ông biết, mình sai mà sửa mình lại mà thôi. Nay có chỉ vua đây truyền cho ông phải bước qua thập giá thì sẽ được tha ngay. Ta cũng thương ông lắm, ông vâng lệnh vua để ta tha ngay bây giờ”. Ngài trả lời lại: “Bẩm quan lớn, tôi biết ơn quan lớn thương tôi, nhưng mà thế tôi phải làm bận lòng quan lớn, không làm sao mà vâng lời vua được. Tôi xin quan lớn cho tôi biết sớm ngày tôi bị xử, để tôi liệu việc riêng tôi mà giã thế gian”.
Các quan biết chắc không có cách nào làm cho ngài bỏ đạo được nên khép án trảm quyết và tâu về kinh. Lần này, vua Minh Mạng châu phê ngay. Khi nhận được tin ấy ngài mừng lắm, nhưng vì đã gần tết, việc thi hành án tạm phải dừng lại.
Tết rồi, quan lại phải đổi và quan mới đến. Vị quan mới này muốn đòi các vị bỏ đạo, do đó, ngài còn bị giam thêm mấy tháng nữa. Lần này quan cho đòi ngài, thầy Thanh và thầy Hiếu mà bảo rằng: “Chúng bay có nghe tao thì sống, nếu chẳng nghe thì phải chết. Bây giờ hãy suy nghĩ”. Ngài liền thay mặt họ trả lời: “Chúng tôi đã suy nghĩ rồi, chẳng có lẽ nào mà chúng tôi đổi ý được. Án chúng tôi đã ra, chúng tôi chỉ mong quan lớn xử chúng tôi cho chóng, chúng tôi chẳng bước qua thập giá, có muốn làm sự quái gở dường ấy cho được giữ sự sống, thì chúng tôi đã làm rồi”.
Ngày 28 tháng 4 năm 1840, quan cho xử ngài và hai thầy Hiếu và Thanh. Trên đường ra pháp trường ở chân núi Cánh Diều, ba vị vừa đi vừa hát. Sau khi ngài cất tiếng hát Allêluia, lý hình thi hành án xử trảm. Đến đêm giáo hữu đem xác ngài về làng Yên Mối, sau chuyển về Phúc Nhạc.
Linh mục Phaolô Phạm Khắc Khoan được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII nâng lên bậc chân phước ngày 27 tháng 5 năm 1900 và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988. [5]
3-Thánh Gioan Baotixita ĐINH VĂN THANH (1796-1840)
Lễ kính: Ngày 28 tháng Tư
“Quan lớn thương thì tôi sống, bằng quan lớn muốn bắt tôi bỏ đạo thì tôi bằng lòng chịu chết. Còn đạo thì tôi chẳng bỏ.” Thánh Đinh Văn Thanh đã nói khi bị tra tấn và dụ dỗ bỏ đạo.
Thánh Gioan Baotixita Đinh Văn Thanh sinh vào năm 1796 tại làng Nộn Khê, xứ Hảo Nho, tỉnh Ninh Bình. Nội hay Nộn Khê nay thuộc về xứ Quảng Phúc, Giáo phận Phát Diệm. Cha mẹ không theo đạo Công Giáo. Năm 18 tuổi, ngài theo đạo và lãnh nhận Bí tích Rửa Tội tại làng Phúc Nhạc.
Khi Gioan Baotixita Đinh Văn Thanh được chọn làm giảng viên giáo lý, thì cũng được bổ nhiệm giúp cha Khoan tại xứ Phúc Nhạc. Thầy rất vâng lời, không bao giờ làm trái ý bề trên. Cha Khoan khen ngợi thầy là người siêng năng, chăm chỉ các việc và có năng khiếu riêng, và giao cho thầy trông coi trại Đông Biên. Các người làm trong trại rất phục thầy, nhưng thầy ở khiêm nhường không bao giờ tự tiện làm việc gì trước khi chưa xin ý kiến cha xứ, và chỉ làm những gì cha xứ dạy.
Ngày 24 tháng 8 năm 1837, Cha Khoan đi kẻ liệt về qua trại Đông Biên ngủ đêm ở nhà ông Dụ và bị bắt ở đấy cùng với thầy và thầy Hiếu. Cả ba vị bị giải lên tỉnh Ninh Bình. Trong quá trình thẩm vấn, thầy luôn khiêm tốn, để cha Khoan trả lời trước rồi mới thưa lại y như cha. Lần đầu tiên chịu sự tra hỏi của quan, thầy nói: “Con là đầy tớ của đạo trưởng đây, ngài đã quyết định làm gì thì con cũng làm như vậy. Bẩm quan lớn, nếu quan thương thì con được sống, còn nếu quan bắt con bỏ đạo thì con xin bằng lòng chịu chết. Đối với đạo, con nhất quyết không bao giờ bỏ”.
Vì cho là có Cha Khoan như một sức mạnh cổ võ thầy, các quan sau đó tra khảo thầy riêng. Thầy phải chịu nhiều thử thách, khốn khó, bị bắt bẻ điều này, đe nẹt điều kia trong đạo, lúc ngọt lúc gay gắt, có khi dọa sẽ mổ bụng, đánh dập đầu. Khi bị lôi qua thánh giá, thầy cưỡng lại hết sức, dù lính khiêng thầy, thầy cũng co chân lên. Khi bị quan cho đánh đòn, thầy vẫn chịu đựng mà không nói một lời.
Trước sự vững vàng không nao núng của thầy, các quan ra lệnh cho cha Duyệt là người đã chối đạo (khóa quá) đến khuyên thầy rằng: “Xưa Thánh Phêrô đã chối Chúa ba lần sau vẫn làm đầu Hội Thánh, hãy bắt chước gương ấy rồi sẽ ăn năn trở lại.” Nghe những lời ấy, thầy tỏ vẻ buồn sầu đau đớn nhưng không đáp lại lời nào. Không còn biết dùng cách nào nữa, quan truyền lính đánh thầy thật đau, lúc hai mươi roi, lúc ba mươi roi, nhưng dù đánh bao nhiêu, đánh mấy lần thầy vẫn im lặng chịu không chút nao núng, nên quan ngạc nhiên nói rằng: “Xác tên này trơ như đá, đánh nó như đánh vào gỗ”. [6]
Sau hơn một năm trôi qua trong ngục, ngày 22 tháng 1 năm 1839 vua Minh Mạng truyền cho các quan phải làm sao để ba tù nhân này xuất giáo.
Quan Án cho đòi hai thầy ra đe doạ, dụ dỗ bỏ đạo. Thầy Thanh vẫn cương quyết, khi nào quan giục giã quá thì thầy lớn tiếng đọc kinh Đạo Đức Chúa Trời có 10 điều răn như lời tuyên xưng Đức Tin, khiến quan tức giận quát rằng: “Chúng bay thà chết mà không bỏ đạo thì mặc chúng bay”, rồi quan kết án hai thầy phải trảm quyết.
Vua Minh Mạng châu phê án ngay, nhưng án ra đến tỉnh vào cuối năm, gần tết, các quan hoãn thi hành án. Cũng kỳ này có quan Tuần mới đến thay thế, quan này còn muốn dụ dỗ thêm nên các thầy còn phải giam mấy tháng nữa, nhưng vẫn không đạt được kết quả.
Vậy các quan nhất định xử Cha Khoan, Thầy Thanh và Thầy Hiếu ngày 28 tháng 4 năm 1840. Đêm vọng ngày phúc lộc ấy thầy Thanh đọc kinh cả đêm. Trên đường đi đến pháp trường ở núi Cánh Diều ba cha con hát bài ‘Kinh Tạ Ơn’ có ý cám ơn Chúa vì đã ban phúc trọng mình trông đợi bấy lâu.
Đến nơi xử, Thầy Thanh còn hát mấy câu, rồi đọc kinh một lúc, sau thầy ngửa mặt lên trời, lính chém một nhát, đầu thầy rơi xuống và linh hồn thày bay về trời hợp với ca đoàn các thiên thần và các thánh chúc tụng tạ ơn Chúa muôn đời. Cả Cha Khoan và Thầy Hiếu cũng bị chém hôm ấy. Về sau các bổn đạo đem xác thầy về làng Yên Mối được ít lâu đưa về Phúc Nhạc.
Ngày 27 tháng 5 năm 1900 Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã phong chân phúc cho thầy và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong hiển thánh cho thầy ngày 19 tháng 6 năm 1988. [7]
***
“Thấy người sang bắt quàng làm họ.” Trong nhiều trường hợp có thể là câu nói mỉa mai cho những ai hay phô trương và thích dựa dẫm vào uy tín, thế giá, hoặc địa vị của người này, người khác. Riêng tôi, tôi thấy mình hãnh diện vì được liên quan ít nhiều đến ba vị Thánh Tử Đạo. Điều này cũng khiến cho tôi phải suy nghĩ đến đức tin và đời sống đạo của mình.
Lạy Thánh Đoàn Viết Đạt, Phạm Khắc Khoan và Đinh Văn Thanh xin cầu cho Giáo Hội Việt Nam, giáo dân Phát Diệm, và cho tất cả những ai đã được sinh ra và lớn lên dưới bóng Thánh Giá của xứ Hảo Nho được đức tin kiên trì và lòng mến sắt son để sống chứng nhân giữa lòng thế giới hôm nay, như các ngài đã sống và đã chết.
___________
Tham khảo:
1.https://nhathoconggiaovietnam.com/nha-tho/nha-tho-co-hao-nho
2. https://phatdiem.org/hat-phat-diem/giao-xu-hao-nho.html
4.“Hạnh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam”. Biên soạn: Hội đồng Giám mục Việt Nam
WHĐ
5. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thanh-phaolo-pham-khac-khoan-tu-dao-ngay-28-thang-4-nam-1840-48930
Trích sách “Hạnh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam”
Biên soạn: Hội đồng Giám mục Việt Nam
WHĐ
7. Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn
Trích sách “Hạnh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam”
Biên soạn: Hội đồng Giám mục Việt Nam
WHĐ
“Ông kia, bà nọ nên thánh, tại sao tôi lại không?” (Thánh Augustine). Câu nói này nêu lên hai câu hỏi: “Thánh nhân là ai? Làm sao chúng ta có thể nên thánh?” Quan niệm chung vẫn cho rằng, thánh nhân là những người được thừa nhận có đời sống thánh thiện, đạo đức phi thường gắn liền với việc ăn chay, kinh lễ, hy sinh, thực hành những công tác bác ái,
Một câu hỏi vẫn thường được đặt ra cho tôi trong những khóa giáo lý tân tòng, hướng dẫn các anh chị em đang chuẩn bị gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Đại khái là: “Em cảm thấy băn khoăn về giáo lý Công Giáo đối với việc thờ cúng tổ tiên.
Trong cuộc hành hương Năm Thánh vừa qua, tôi đã có dịp đến thăm Assisi, quê hương của Thánh Phanxicô. Thật là cảm động khi nhìn lại những nơi ngài đã sinh ra, đã sống, và đã qua đời. Nhưng điều làm tôi suy nghĩ nhiều hơn hết là tinh thần của Phanxicô được thể hiện qua lời Kinh Hòa Bình.
Những quan tâm mà cha mẹ phải để ý đến trẻ em là tình trạng béo phì, tiểu đường, cận thị, lười học, tâm lý bất ổn, và gần đây là thói quen dùng điện thoại (cell phone, iphone, smarthphone). Trong khi nhiều cha mẹ không biết hoặc thả lỏng việc dùng điện thoại, vào năm 2019 CellCell đã thực hiện cuộc khảo cứu 1135 phụ huynh tại Mỹ có con từ 4 và 14 tuổi.
Yêu con bằng cách “cho roi cho vọt” vào thời điểm này được cho là tư tưởng và thực hành lỗi thời, và thiếu văn hóa. Tại các xứ tự do, họ coi việc sửa phạt trẻ em như những hành vi mang tính xâm phạm, gây tổn thương về tâm lý cũng như thể lý của trẻ.
Ngoài những nét đẹp, duyên dáng, nhẹ nhàng, đáng yêu của người phụ nữ, một nhận xét hơi có phần tiêu cực về phái đẹp, là thói “càm ràm”. Càm ràm từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều và từ chiều đến tối. Đêm về nhiều khi trên giường ngủ nhớ tới một vấn đề gì mà ban ngày chưa càm ràm thì đem ra càm ràm tiếp.
Trong một cuộc hội thảo về hôn nhân gia đình, một câu hỏi đã được nêu lên: “Em có người chồng rất thương yêu vợ và lo lắng cho gia đình, nhưng anh ấy có thói là thích cái gì là tự đi làm mà không bàn hỏi với em một vấn đề gì hết, và em là người sau cùng biết chuyện ấy khi nó đã xảy ra bất luận tốt hay xấu.
“Happy Birthday mom”. Những lời đầy cảm xúc, chân tình và yêu thương này các con tôi mỗi năm một lần chúng đã nói, và đã hát mừng mẹ của chúng trong ngày mừng sinh nhật của nàng, mỗi khi chiếc bánh sinh nhật được đem ra.
Trong trích đoạn Phúc Âm ngắn ngủi trên, Thánh Gioan đã gợi lại cho chúng ta hai hình ảnh đáng phải suy nghĩ: Tình yêu Thiên Chúa, và Sự sống đời đời. Nếu để ý suy nghĩ cẩn thận chúng ta nhận ra điều này cả hai đều phát sinh từ Thánh Giá.
“Happy Birthday mom”. Những lời đầy cảm xúc, chân tình và yêu thương này các con tôi mỗi năm một lần chúng đã nói, và đã hát mừng mẹ của chúng trong ngày mừng sinh nhật của nàng, mỗi khi chiếc bánh sinh nhật được đem ra.
Được mời dự tiệc là một vinh dự. Người mời càng có quyền, có thế lực và địa vị thì càng hãnh diện. Đó là mặt nổi của tảng băng, nhưng mặt chìm thì khó ai mà đoán biết. Nhưng có một điều mà nhiều người vẫn thường nói với nhau - hy vọng chỉ là vui thôi - mình mới nhận được giấy phạt “ticket”
Thánh Augustine (354-430) cũng được gọi là Thánh Augustine thành Hippo, một giám mục, học giả, Tiến Sỹ Giáo Hội, thần học gia và triết gia với tầm ảnh hưởng rộng lớn trong thời các Tín Hữu tiên khởi. Hai trong trong các tác phẩm nổi tiếng của ngài là Tự Thú (Confession) và Thành Đô Thiên Chúa (The City of God).
Bước vào đời sống hôn nhân, ai cũng mong được hạnh phúc. Ngược lại, nếu hôn nhân không như ý mình muốn thì đây chính là một bất hạnh mà không ai muốn nó xảy ra. Nhưng nếu chồng bạn, con bạn trở thành những gánh nặng khiến bạn trở nên tuyệt vọng thì cũng đừng thất vọng, vì bạn đang giống một người. Người này đã bước vào hôn nhân khi còn rất trẻ với một người chồng đã gây ra nhiều nỗi thất vọng.
Hồi còn nhỏ, mỗi lần lười không muốn đi nhà thờ hoặc bị cám dỗ bỏ lễ tôi lại nghĩ tới lời mẹ dậy: “Phải siêng năng đọc kinh, cầu nguyện, đi nhà thờ, đi lễ để ngày sau được lên thiên đàng”. Nhưng lại không dám hỏi mẹ: “Thiên đàng là gì? Nó ở đâu?” Và nếu như có hỏi thì cũng được nghe một câu trả lời, đại khái:
Vào một buổi chiều cách đây khoảng 15 năm, Đức Cha Chu Văn Minh cùng với cha phụ tá Brunô Phạm Bá Quế thuộc Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội đã đến thăm gia đình chúng tôi. Những câu chuyện tình yêu sét đánh tưởng chỉ có trong tiểu thuyết tình,
Có ít nhất ba cách chính để đối thoại hay nói chuyện với nhau: bằng ngôn ngữ, bằng cử chỉ, và bằng chữ viết. Đối thoại hay nói bằng ngôn ngữ được chuyển đạt bằng lời, bằng biểu hiện cơ thể, và bằng viết thành chữ điều muốn nói. Nhưng nguyên nhân gây đổ vỡ trong hôn nhân lại chính là vợ chồng không nói, không hiểu nhau và không trao đổi được với nhau. Thay vì nói cho nhau nghe, lắng nghe để hiểu nhau, họ chỉ to tiếng cãi vã rồi dẫn đến bất hòa. Theo kiểu nói bình dân gọi đây là “khắc khẩu!”
Nhiều anh chị em thất tình, chán đời thường thích ngâm nga bài hát hoặc những lời ca trên của phần mở đầu bài hát “Không 1” của Nguyễn Ánh 9. Lý do mà anh không còn yêu em nữa hoặc em không còn yêu anh nữa thì có rất nhiều, và tùy vào mỗi người, mỗi hoàn cảnh.
“Linh mục nên hay không nên có vợ? Phụ nữ nên được phong chức linh mục?” Đây là những đề tài từng đã gây nhiều tranh cãi trong nhưng thập niên gần đây. Đa số không đồng tình; ngược lại, cũng có một số đồng tình trong đó có cả các giáo phẩm, linh mục và tu sỹ.
Mỗi lần tôi nhận được câu hỏi, đại khái: “Làm cách nào để tôi có thể nói chuyện được với đứa con gái ở tuổi dậy thì?” Hoặc những câu hỏi tương tự, tư tưởng đầu tiên xuất hiện trong trí tôi là những phụ huynh này đã không biết nói chuyện với con cái như thế nào khi chúng còn bé,
Thánh Thể cũng được biết như Bánh Nuôi Linh Hồn, hoặc Bữa Tiệc Ly là BÍ TÍCH TÂM ĐIỂM của Kytô Giáo. Nó được Chúa Giêsu thiết lập trong Bữa Tiệc Khi khi Ngài phân chia bánh và rượu với các môn đệ, xác nhận đó là mình và máu của Ngài.
Một Thiên Chúa mà có ba ngôi. Ba ngôi là một Thiên Chúa. Đây là một trong những mầu nhiệm sâu thẳm, cao siêu nhất vượt trên mọi sự hiểu biết của đức tin Kitô Giáo. Mỗi lần làm dấu Thánh Giá, chúng ta đang tuyên xưng một Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần.
Bốn mươi ngày sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu đã lên trời trên núi Olives gần làng Bethany trước mặt 11 Tông Đồ (TĐCV 1:9-12; Luca 24:50-51). Tông Đồ Công Vụ đã diễn tả cảnh thầy trò chia tay như sau: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.
Trong những điều làm cho cha mẹ cảm thấy đau lòng và thất vọng, là tình trạng đứa con của mình bỏ nhà đi hoang. Một đứa trẻ ở nhà với cha mẹ mà đôi khi còn lười biếng, bê bối học hành, cãi trả cha mẹ, thiếu hòa khí với anh chị em, sống thiếu kỷ luật thì khi nó ra khỏi gia đình sẽ sống như thế nào?
Ngày 31 tháng Năm kết thúc tháng Hoa và cũng là ngày Giáo Hội mừng Lễ Mẹ Thăm Viếng. Theo Phúc Âm thánh Luca, sau khi Tổng Thần Gabriel truyền tin Mẹ mang thai Chúa Giêsu, đồng thời cũng biết chị họ mình là Isave đã có thai được sáu tháng, Đức Maria đã vội vã lên đường đến thăm viếng và chúc mừng người chị cao niên đang mang tiếng là son sẻ của mình. (Luca 1:39-56)
Viết về mẹ, tôi muốn nhìn mẹ bằng cái nhìn tuổi thơ, với những câu nói ngớ ngẩn, những nhận xét ngu ngơ nhưng dễ thương về mẹ. Những câu nói mà có lẽ mẹ cho đến tuổi già vẫn nhớ, vẫn lập lại như những kỷ niệm khó quên khi con còn thơ bé.
Khói trắng đã bốc lên từ ống khói Điện Sistine lúc 6:07 chiều và sau đó vào lúc 7:17 chiều theo giờ địa phương Rôma, Thứ Năm ngày 8 tháng Năm, Đức Hồng Y Dominique Mamberti trưởng đẳng phó tế xuất hiện tại balcony Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô thông báo với toàn thế giới:
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam không nhắc đến một cách rõ ràng việc sùng kính Đức Mẹ trong tháng Năm đã được truyền vào Việt Nam từ bao giờ và trong những hoàn cảnh nào. Tuy nhiên, những ai đã qua tuổi thiếu niên ở một giáo xứ thì không thể quên được hình ảnh những buổi dâng hoa kính Đức Mẹ khi tháng Năm về, và thuộc lòng những bài hát như:
Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria, “cha đồng trinh” hay dưỡng phụ của Chúa Giêsu Kitô là một vị thánh cao cả trong Giáo Hội. Thánh Kinh gọi Ngài là “người công chính” (Mátthêu 1:18). Ngoài những danh hiệu cao quý trên, Thánh Kinh còn dành cho Ngài một danh hiệu nói nghề nghiệp và sinh kế của Ngài: Bác thợ mộc.
Sau khi phục sinh từ cõi chết, Chúa Giêsu đã hiện ra với một số người trong một số hoàn cảnh. Ngài hiện ra với Maria Magdalene, Phêrô, và các Tông Đồ. Phaolô liệt kê những lần hiện ra mà ông biết: “Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ.
Chúa Nhật II Phục Sinh được Giáo Hội cử hành đại lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này nhân dịp phong thánh cho Nữ tu Maria Faustyna (thường được đánh vần là Faustina) Kowalska ngày 30 tháng Tư 2000. Vậy tại sao thế giới hôm nay cần đến Lòng Thương Xót Chúa? và Tại sao Giáo Hội lại phổ biến Lòng Thương Xót này?
Trong khi đón rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng đã tung hô Ngài: “Chúc tụng đức vua, đấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời.” (Luca 19:38) Nhưng liệu những người đón tiếp Chúa hôm đó, có thực sự nhận ra Ngài là vua của các vua, hay chỉ thuần túy đón tiếp một vị vua như Saulê hay Đavít.
“Dô! Dô! Dô!”
“Lâu lâu rồi ta mới nhậu một lần.
Nhậu một lần thì nhậu cho lâu lâu”.
Rồi cả bàn lại nâng ly hô to: “Dô! Dô! Dô!”
Đây là hình ảnh một bữa nhậu mà tôi đã học được trong lần về quê thăm gia đình vừa qua. Những bữa nhậu như vầy thường xuyên xảy ra trong văn hóa giao lưu đối tác tại Việt Nam.
Khi suy niệm về trích đoạn Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê đoạn 3 từ câu 8 đến 11, chúng ta có cảm thấy bị thu hút và bàng hoàng về xác tín mạnh mẽ của thánh nhân khi viết về Chúa Giêsu Kytô. Ngài viết: “…Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kytô Giêsu, Chúa của tôi.
Ba điều cần phải làm trong mùa chay là cầu nguyện, chay tịnh và thực hành bác ái. Đây là những việc sẽ dẫn chúng ta tiến tới mối tương quan gần gũi hơn với Thiên Chúa, đón nhận ánh sáng Phục Sinh. Nhưng để được gần gũi, thân mật với Ngài, con người phải biết thống hối và trở về với Ngài.
Thánh Martin sinh tại Savaria, địa phận Pannonia thuộc Hung Gia Lợi ngày nay vào năm 316 hoặc 336, qua đời ngày 8 tháng Mười Một 397 với tuổi thọ khoảng 60 đến 81. Khi còn là một sỹ quan trẻ, vào một buổi chiều mùa đông lạnh giá, ngài thấy một người ăn xin đang co ro, rét run bên đường.
Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất của người dân Việt Nam, mang ý nghĩa nhân văn, phong tục, tập quán, và truyền thống của một dân tộc. Vậy nguồn gốc, ý nghĩa, và phong tục ngày Tết như thế nào?
Năm hết tết đến, mọi người đều thấp thỏm muốn biết năm mới tương lai, hậu vận sẽ ra sao? Tình duyên, gia đạo, công ăn việc làm, xây cất, hùn hạp, công danh sự nghiệp sẽ như thế nào? Tương lai nhân loại năm 2025 sẽ đi về đây? Liệu thế chiến thứ ba có xảy ra?
Chồng tôi là một người đàn ông trăng hoa không cần biết hậu quả như thế nào. Chúng tôi đã sống với nhau 10 năm và có 2 con gái rất xinh xắn, dễ thương. Trong thời gian chung sống tính đến nay anh đã ngoại tình với 3 người phụ nữ: đàn bà có chồng, đàn bà lớn tuổi, và con gái mới lớn. Mỗi lần bị lộ chuyện là anh thề sống thề chết sẽ từ bỏ, sẽ quay về con đường ngay chính. Nhưng gần đây thì anh lại đang liên lạc với một người phụ nữ thứ tư. Người này không ai khác là cô em họ hàng xa với anh ta.
NGÀY SINH NHẬT của Chúa và Đấng Cứu Độ chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, đã xuất hiện trên trái đất, và sự tiếp nối của ngày này kéo dài mãi đến thời đại của chúng ta, dẫn tới ngày kỷ niệm của nó, đã được chúng ta nhận biết hôm nay khi vui mừng về việc cử hành đặc biệt này.‘Chúng ta hãy hân hoan và vui mừng về ngày ấy,’
NGÀY SINH NHẬT của Chúa và Đấng Cứu Độ chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, đã xuất hiện trên trái đất, và sự tiếp nối của ngày này kéo dài mãi đến thời đại của chúng ta, dẫn tới ngày kỷ niệm của nó, đã được chúng ta nhận biết hôm nay khi vui mừng về việc cử hành đặc biệt này.‘Chúng ta hãy hân hoan và vui mừng về ngày ấy,’
Lễ Giáng Sinh hay còn được gọi là Lễ Sinh Nhật, Christmas, Noël, Nativity, Kolena, Xmas… Một đại lễ mang tính cách quốc tế, được cử hành trong toàn Giáo Hội Công Giáo, và hầu như trên khắp thế giới. Đây là ngày vừa có tính cách tôn giáo, và cũng là một lễ hội,
Biến cố giáng sinh của Chúa Giêsu ở Belem (Bethlehem) được trình thuật trong Phúc Âm của Mátthêu và Luca: “Và bà hạ sinh một con trai. Bà quấn con trong khăn và đặt trong một máng cỏ, bởi vì không có phòng trọ cho họ.” (Luca 2:7). Theo truyền thống, Hài Nhi Giêsu được sinh ra trong một chuồng nuôi súc vật ngoài thành Belem thuộc miền đồi núi Giuđêa, khoảng 10 Km phía Nam thành Giêrusalem, Bờ Tây (the West Bank) của Palestine.
Nhập Thể và Thánh Thể là hai mầu nhiệm rất quan trọng đi đôi với nhau trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu sinh ra tại hang đá Belem, cũng là Chúa Giêsu được sinh ra trên bàn thờ trong các thánh lễ. Ngài là của ăn và là bánh hằng sống. Mùa Vọng với mục đích cuối cùng của nó là đem chúng ta đến gần và lãnh nhận Thánh Thể như một phương thế dọn lòng đón chờ ngày kỷ niệm Chúa giáng trần và ngày Ngài lại đến trong vinh quang.
Các thánh tử đạo Việt Nam là danh sách những tín hữu, chủng sinh, thầy giảng, linh mục Công Giáo Việt Nam hoặc thừa sai ngoại quốc được Giáo Hội Công Giáo Rôma tuyên thánh với lý do chết vì Đức Tin. Theo lịch sử Công Giáo Việt Nam, ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã phải chết để làm chứng đức tin của mình. Trong số đó có 117 vị được tôn phong hiển thánh
Hôm nay tôi một mình đi trong nghĩa trang, tìm lại những kỷ niệm của những người đã đi trước: giám mục, đức ông, linh mục, tu sỹ, các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, chú thím, bạn bè, và anh em. Đời người thật ngắn ngủi. Mới đó mà nay đã ra người thiên cổ. Mới đó mà nay đã không còn xuất hiện trên cõi đời này, không còn có dịp gặp gỡ, hàn huyên, tâm sự với nhau nữa.
Theo Chúa, hy sinh vì Chúa, và phục vụ Chúa kết quả để được gì? Đây không phải chỉ là câu hỏi mà mọi người chúng ta đôi lúc bị cám dỗ nghĩ tới. Các thánh nhân, ngay cả các Tông Đồ cũng bị cám dỗ này làm lung lay. Điển hình là Phêrô, sau một thời gian theo Chúa, ông đã chẳng thấy tương lai gì nên thẳng thắn hỏi Chúa: “Lạy Thầy chúng tôi đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, chúng tôi sẽ được gì?” (Mt 19:27).
Maria Magdalena (Maria Mađalêna hay còn được gọi là Maria Mai-đệ-Liên) là một trong các nữ môn đệ của Chúa Giêsu. Bà được Ngài chữa lành và trừ cho bảy quỷ (x. Luca 8:2; Marcô 16:9). Bà trung thành đi theo Chúa kể cả đứng dưới chân thập giá trong khi các Tông Đồ bỏ trốn hết, ngoại trừ một mình Gioan ở lại.
-Sầu Đông hôm qua đem sổ điểm về em la cho nó một mẻ. -Nó phạm lỗi gì mà em la nó? -Nó bị một con B. -Em không biết là thang điểm, B đứng hạng nhì không? A,B,C. Làm gì phải la nó, vả lại chỉ có một con B thôi mà. -Em muốn nó được A tất cả. Em muốn nó phải vào được trường giỏi, ra trường thủ khoa và có tương lai. Em một mình nuôi nó ăn học, em có quyền hy vọng điều đó. Câu chuyện giữa tôi và cô em trên chắc cũng là giấc mơ của nhiều phụ huynh.
-Sầu Đông hôm qua đem sổ điểm về em la cho nó một mẻ. -Nó phạm lỗi gì mà em la nó? -Nó bị một con B. -Em không biết là thang điểm, B đứng hạng nhì không? A,B,C. Làm gì phải la nó, vả lại chỉ có một con B thôi mà. -Em muốn nó được A tất cả. Em muốn nó phải vào được trường giỏi, ra trường thủ khoa và có tương lai. Em một mình nuôi nó ăn học, em có quyền hy vọng điều đó. Câu chuyện giữa tôi và cô em trên chắc cũng là giấc mơ của nhiều phụ huynh.
Mấy người bạn của tôi nay người này, mai người khác cứ lần lượt rủ nhau từ giã cõi đời. Những người còn lại thì hồi hộp, thấp thỏm: “Bao giờ đến phiên mình?” Vẫn biết rằng có sinh thì phải có tử, nhưng chuyện gì xảy ra trước và sau đó vẫn là điều mà nhiều người thường hay băn khoăn, lo lắng.
Trải qua bao thế kỷ, Giáo Hội Công Giáo đã dành tháng Năm để đặc biệt tôn kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Không phải chỉ là một ngày, mà toàn tháng Năm. Như mùa Đông qua, tháng Năm được coi như khởi đầu một sức sống mới của vạn vật. Truyền thống dành riêng tháng Năm tôn kính Đức Mẹ bắt nguồn từ việc người Rôma tôn kính nữ thần mùa xuân. Các Kitô hữu ban đầu đã tôn giáo hóa tập tục này, và tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.
Chúa Giêsu, qua trích đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan (15:1-8) đã diễn tả về mối tương quan giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh quen thuộc mà mọi người Do Thái đều biết, đó là hình ảnh cây nho. Ngài là cây nho và chúng ta là cành.
Cây nho mọc khắp nơi tại Palestine. Dù trồng ở đâu, việc chuẩn bị đất trồng vẫn là việc chính yếu.
Câu truyện truyền tin của Đức Maria đã được Thánh sử Luca (1:26-38) ghi lại một cách chi tiết và đầy đủ. Trong biến cố này Đức Maria đã trở nên một gương mẫu đức tin cho chúng ta. Người cho chúng ta thấy rằng đức tin không chỉ là hành động chấp nhận, nhưng còn là sự tín thác, trung tín, vâng lời, và phục tùng nữa.
“Đừng sợ, Ta là nguyên thủy và cùng đích, và là Đấng hằng sống. Ta đã chết, và nay ta đang sống tới muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18).
Chúng ta nghe những lời yên ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ Sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Đức Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện an ủi của Ngài.
Thứ Sáu Tuần Thánh. Đồi Golgotha. Cây thập tự. Không gian, thời gian và vật dụng ấy nhắc tôi về cái chết đau thương, đầy nhục nhã của Đức Giêsu Cứu Thế. Ngài bị đóng đanh và chết trên thập giá. Nhưng cái chết của Người thực sự đem lại cho tôi điều gì? Tại sao tôi phải xót xa và thương cảm? Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma (6:3-11) đã trả lời tôi về những gì mà tôi đang suy tư, khi liên kết cái chết của Chúa Giêsu với cái chết của người Kitô hữu qua Bí Tích Thánh Tẩy:
Mỗi lần Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh, Giáo Hội lại cho đọc những trình thuật về cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu vào Thành Thánh Giêrusalem. Gọi là cuộc khải hoàn, nhưng đúng hơn, đây là hình ảnh của việc chiếm ngự tâm linh mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện khi ngài chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Một hình ảnh của cuộc chiến thắng tinh thần.
“Khi đến gần làng Bethphage, bên triền núi gọi là Ôliu. Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh tháo dây ra và dắt nó đi. Và nếu có ai hỏi: “Tại sao các anh tháo lừa người ta ra, thì cứ nói: “Chúa cần đến nó!”
Thánh Giuse là một vị thánh cao cả và vỹ đại nhất trong Giáo Hội Công Giáo. Hình ảnh của ngài luôn gắn liền với hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria và Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại. Tuy nhiên, sự cao cả và vỹ đại của Ngài không được những tài liệu, sách báo do con người ghi chép, nhưng tiềm ẩn trong Thánh Kinh Tân và Cựu Ước.
Chúa Giêsu sau khi chịu Phép Rửa trên sông Gordan, Ngài được Thánh Thần đưa vào sa mạc, ở đó 40 ngày ăn chay và chịu Satan cám dỗ. Để tìm hiểu những cám dỗ ấy của Ngài, cũng như chúng có ý nghĩa gì trong đời sống tâm linh của chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay Thánh này. Sau đây là bài viết của cha Thomas G. Weinandy, OFM, Cap., một nhà thần học, một nhà trước tác và cựu thành viên trong Ủy Ban Thần Học Thế Giới của Vatican,
Chúa Giêsu đã đem ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao, ở đó Chúa biến hình trước mặt các ông (x. Marcô 9:2-10).
Thánh sử Marcô đã tả lại quang cảnh này bằng những từ ngữ rất gợi hình, truyền cảm: “Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.” (3) Có Maisen và Êlia cùng xuất hiện đàm đạo với Chúa. Điều này khiến các ông vui sướng, và phản ứng lúc đó của Phêrô là muốn ở lại luôn trên núi với Thầy:
Anh chị em thân mến!
Khi Thiên Chúa của chúng ta mặc khải Ngài chính Ngài, thông điệp của Ngài luôn luôn nói đến tự do: “Ta là Chúa, Thiên Chúa các ngươi, người đã đem các ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ” (Ex 20:2). Đây là những lời đầu tiên trong Mười Giới Luật mà Ngài đã ban cho Maisen trên núi Sinai.
Vợ chồng xưng hô với nhau bằng Chồng ơi – Vợ ơi, Bố ơi – Mẹ ơi, Anh ơi – Em ơi, hoặc Mình ơi thì đến già vẫn yêu thương mặn nồng, kẻ thứ 3 khó có chỗ chen chân vào. Những từ ngữ trên là cách gọi vừa thể hiện chủ quyền sở hữu, trách nhiệm, và tình cảm mà cả hai dành cho nhau.
Thống kê cho thấy, ngày nay rất nhiều phụ nữ chọn sống độc thân, không lấy chồng và sinh con. Lý do vì họ muốn được tự do theo đuổi những giấc mộng riêng tư, vì không muốn chịu ràng buộc với trách nhiệm làm vợ và làm mẹ. Nhưng tự thâm tâm và bản năng, người phụ nữ luôn muốn có một người chồng và được làm mẹ.
Qua hai câu Thánh Kinh ngắn gọn, Thánh Ký Marcô đã vẽ ra hai khuôn mặt trái ngược nhau về Chúa Giêsu: “Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” (3:20-21)
Ba nhà chiêm tinh hoặc đạo sỹ (magi). Các ngài là Caspar hay Caspas, Jaspas, Gathaspa. Melchior hay Melichior. Và Balthasar hay Balthazar, Balthassar hoặc Bithisarea. Các ngài đã lận lội đường xa đến thờ lạy Đức Kitô vừa giáng sinh. “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:2).
“Ngài đã trở nên một trẻ thơ, để Ngôi Lời có thể được chúng ta nắm bắt. Bằng cách này, Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương những người bé mọn… Ngài dạy chúng ta yêu những ai yếu đuối.”
“Ngài đã trở nên một trẻ thơ, để Ngôi Lời có thể được chúng ta nắm bắt. Bằng cách này, Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương những người bé mọn… Ngài dạy chúng ta yêu những ai yếu đuối.” Trong bài giảng dưới đây, Đức Thánh Cha đã lưu tâm đến những trẻ em bị lạm dụng, xâm phạm, bao gồm những thai nhi bị giết hại,
Thấm thoát mà đã 2023 lần kỷ niệm ngày Giêsu giáng trần. Mỗi năm mỗi khác, và mỗi nơi cũng mỗi khác. Có những năm trời mưa, giông bão, tuyết rơi. Có những năm thanh bình, và cũng có những năm chiến tranh. Riêng tại quê hương Việt Nam tuy hết chiến tranh nhưng lại chưa có thanh bình!
Advent xuất phát từ tiếng Latin là adventus có nghĩa là đang đến, đang tới gần. Theo lịch phụng vụ, đây là thời gian mong chờ và chuẩn bị đón mừng Sinh Nhật của Đức Giêsu Kitô trong đêm Giáng Sinh, và ở một nghĩa khác, nhắc nhở chúng ta hướng tới ngày trở lại lần thứ hai của Ngài. Mùa Vọng kéo dài qua 4 tuần lễ với 4 Chúa Nhật Mùa Vọng.
Hôm 8 tháng 9 năm 2023 lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách Vinh Quang Mẹ Maria (The GLORIES of MARY) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Và tôi đã cùng ngài suy niệm câu: “Đến sau cõi đời này, xin Mẹ cho chúng con được thấy Chúa Giêsu quả phúc của lòng Mẹ”
Theo truyền thống đã có từ những thế kỷ đầu, Giáo Hội Công Giáo tôn kính 7 Tổng Thần có tên là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Camael, Jophiel, and Zadkiel. Ba vị đầu là Michael, Gabriel và Raphael
Sau khi đọc bài “KHI THA THỨ LÀ TỰ THA CHÍNH MÌNH”, một độc giả đã email phản ảnh ý kiến của mình. Ông viết: “Bài học này tôi đã học mãi mà chưa thuộc. Tha đã khó mà quên những điều người khác làm cho mình phải khổ, phải thiệt thòi, hoặc phải mất danh dự thì càng khó hơn”.
“Tha thứ là tự tha cho chính mình”. Tư tưởng này xem ra như không hợp với suy nghĩ và lối sống của nhiều người. Làm gì có chuyện tha cho kẻ cướp chồng mình, kẻ phản bội mình vì một người đàn bà khác, kẻ cướp của, giết hại cha mẹ, anh chị em mình, hoặc kẻ tham ô khiến mình phải mất đất, mất nhà, mất việc làm để rồi đến nỗi táng gia bại sản, thân bại danh liệt, gia đình đổ vỡ, con cái nheo nhóc, lâm cảnh tù tội…
Hôn nhân là một đời sống hạnh phúc. Nó chính là nền tảng của gia đình, của xã hội, và cả tôn giáo nữa. Bởi đó hôn nhân có rất nhiều kẻ thù. Thoạt nhìn vào những đổ vỡ của hôn nhân, người ta thường cho rằng kẻ thù của nó là những tệ nạn của xã hội: rượu chè, nghiện hút, cờ bạc, và lăng nhăng trai gái. Một số nguyên nhân khác bao gồm: vợ chồng ghen tương, lười biếng, thiếu trách nhiệm, nếp sống gia trưởng, và bạo hành trong gia đình.
Hôm nay (8 tháng 9 năm 2023) lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách The GLORIES of MARY (Vinh Quang Mẹ Maria) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Trong phần tài liệu, tôi đã đọc bài viết của thánh nhân, và cùng ngài suy niệm câu: “Et Jesum benedictum fructum ventris tui nobis post hoc exilium obstande”
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?